1. Hoàn cảnh ra đời
a. Tác giả, hoàn cảnh.
Tác giả: Đức Thánh cha Bênêdicto XVI, vị Giáo hoàng thần học gia lỗi lạc
Peter Seewald sinh năm 1954, là một ký giả nổi tiếng người Đức, ông tập trung viết về chủ đề Công giáo đặc biệt là về Đức Biển Đức XVI.
- Hoàn cảnh ra đời: cuốn sách này được biên soạn trong thời gian đức Hồng y Joseph Ratzingerđang làm tổng trưởng bộ giáo lý đức tin
Thiên Chúa và Trần Thế (2000) là câu chuyện tiếp nối giữa Seewald - người con hoang giờ đây đã trở về - và Đức Hồng y Ratzinger trước khi trở thành Giáo hoàng Bênêđictô. Seewald đại biểu cho lớp người (trẻ) mang tâm tư và suy nghĩ vừa thực tiễn vừa ngờ vực của con người khoa học và cuộc sống hiện đại. Còn “ông hoàng Giáo hội” hay “đại hiền giả” (chữ của Seewald) Ratzinger không chỉ trả lời với tư cách là người thẩm quyền cao nhất của Giáo hội trong vấn đề đức tin, mà còn như một nhà tâm lý lão luyện, biết rõ ưu khuyết điểm của phía mình cũng như khả năng và bất cập của đối phương.
Thiên Chúa và Trần Thế (2000) sẽ cho ta thấy kho tàng ẩn giấu trong đó. Đây không còn là một cánh cổng đi vào (như Muối Cho Đời), mà là những cánh cửa phòng bên trong mở ra các ẩn số. Nói cách khác, không còn là chuyện tò mò của người chưa tin đứng ngoài nhìn vào nữa, mà là cuộc tra vấn giữa những kẻ tin về kho tàng niềm tin của mình.
Trong lần xuất bản đầu tiên, sách mang tựa đề: Thiên Chúa và Trần Thế - Các ẩn số niềm tin Kitô giáo. Trong các lần tái bản về sau, đề tựa sách đã được đổi thành Thiên Chúa và Trần Thế - Tin và sống trong thời đại ngày nay.Trong lần tái bản thứ 9 loại sách bỏ túi, nhà xuất bản ở Đức đã gộp cả 2 cuốn in thành một tập chung. Sau khi bản dịch tiếng Việt Muối Cho Đời ra mắt vào đầu năm 2006 và đã được độc giả nhiệt liệt hưởng ứng, Thiên Chúa và Trần Thế đã được chuyển dịch ngay sau đó. Tuy nhiên, vì nhiều khó khăn, phải chờ tới 2023 mới phát hành được. Hai tác phẩm đã được dịch ra 24 thứ tiếng trên thế giới.
b. Bố cục
Cuốn sách Thiên Chúa và Trần Thế gồm 3 chương và phần dẫn nhập:
Chương dẫn nhập (trang 24-78): “Đức tin, Hy vọng, Tình yêu” bàn về Tin, Cậy, Mến, những chủ đề mà ta đã thấy trong 2 thông điệp Deus Caritas Est (2006) và Spe Salvi (2007) mới đây của Đức Giáo Hoàng Bênêđictô.
Chương 1 (79-205): “Thiên Chúa” - Trình bày một số quan điểm trong cuốn “Nhập môn Kitô giáo” (1968), tác phẩm đã làm nhà thần học trẻ Ratzinger được thế giới biết đến, cuốn sách đã trở thành loại cổ điển trong kho tàng đức tin Kitô giáo. Chương này có tên là Thiên Chúa. Tuy vậy đề mục đầu tiên lại để cập đến con người. Cụ thể, phần này đề cập đến hơi thở của Thiên Chúa: người nam và người nữ - Bên kia địa đàng - Tội tổ tông, linh hồn và tự do. Từ đó, những câu hỏi xuất hiện liên quan đến Thiên Chúa như: Thiên Chúa là đàn ông hay đàn bà? Thiên Chúa ở đâu? Thiên Chúa muốn gì sẽ được đề cập. Phần này cũng đề cập đến trật tự tự nhiên như những bằng chứng hiển nhiên của vũ trụ. Các giao ước và lề luật cũng như phác hoạ dung mạo, như một Thiên Chúa là tình yêu.
Chương 2 (206-353): “Đức Giêsu Kitô” - Chương này nói về Đức Giêsu Kitô, tác giả gợi lên câu hỏi có tính tiêu điểm. Đức Giêsu Kitô là nhân vật giả tưởng chăng? Từ đó, Đức Biển Đức đưa ra những suy tư và kinh nghiệm về Chúa Giêsu là Ánh Sáng, là Đường, là Sự thật và là Sự sống
Chương 3 (354-471): “Giáo hội” - Phản ánh và tóm tắt những suy tư của nhà thần học Ratzinger về Giáo hội, được quảng diễn trong rất nhiều bài viết, đặc biệt trong luận án tiến sĩ “Dân và Nhà Chúa” theo học thuyết Augustinus về Giáo hội (1953).
Phần cuối cùng: nói về tương lai của Giáo hội trong thế kỷ 21 này, Giáo hội thiểu số hay đa số.
2. Nội dung
Như đã nói, cuốn sách này đề cập đến những cuộc nói chuyện của nhà báo Peter Seewald và Đức Ratzinger, lúc đó là bộ trưởng của Bộ giáo lý đức tin. Tác phẩm được đề tựa trong sự nối kết với thông điệp Đức Tin và lý trí (Fides et Ratio) của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Đức Tin và lý trí là đôi cánh nâng con người lên để “chiêm ngưỡng sự thật.” Từ đó, những cơ hội liên hệ đến việc chiêm ngưỡng sự thật sẽ được nối tiếp. Chẳng hạn: “Tôi là ai? Tôi từ đâu đến và sẽ đi về đâu? Tại sao có sự dữ? Còn gì sau cuộc sống này?” Ngày nay, dường như càng có nhiều người đầu hàng trước những vấn nạn nền tảng đó. Những câu hỏi ấy xem ra quá cao đối với họ và lối giải trình của họ theo kiểu: thời nay, ta không cần phải nói đến những gì là chính thống nữa, nghĩa là nói tới sự đúng đắn của niềm tin hay của tri thức. Bởi vì niềm tin tạo ra sự chia rẽ và bất khoan dung mà ta chỉ cần hành động đúng là đủ. Bởi vì hành động nối kết con người lại với nhau. Nhận định đó, rõ ràng là sai bởi vì làm sao hành động đúng khi ta không biết được cái gì là đúng, nếu không có tri thức đúng thì làm sao hành động đúng?
Vì thế, Đức Biển Đức ngang qua những trao đổi với Peter Seewald, một người từng là một kẻ hoài nghi và giờ đã là một tín hữu nhiệt thành. Hy vọng người đọc mở rộng tâm hồn để vượt ra những cái hạn hẹp hàng ngày, nhìn ra tia sáng, giúp ta hiểu thêm đôi chút về mầu nhiệm của Chúa, về cuộc lữ hành và đích đến của ta. Nhờ vậy, ta có thể hiểu thêm về đức tin và qua đó, hiểu thêm về chính con người mình và về vũ trụ trong ánh sáng của Thiên Chúa.
Trong phần dẫn nhập có tựa đề, “Đức tin, Hy vọng và Tình yêu,” tác giả đã có những trao đổi gần gũi về Đức Biển Đức liên quan đến tương quan của ngài đối với Thiên Chúa và cả những hoài nghi lo sợ trong cuộc sống của ngài. Chẳng hạn, khi tác giả hỏi ngài: thỉnh thoảng đứa con trai của tôi hỏi tôi: Ba có biết Thiên Chúa như thế nào không? Đức Biển Đức trả lời, có lẽ tôi sẽ trả lời nó: Thiên Chúa giống như Đức Giêsu Kitô. Đức Kitô cũng đã có lần nói: “Ai thấy tôi thì thấy Cha.” Và nếu như ta nhìn toàn bộ lịch sử Đức Giê-su - khởi đi từ máng cỏ, qua giai đoạn công khai, những lời giảng giá trị và sống động, cho tới bữa tiệc ly, tới thập giá, phục sinh và tới lệnh rao giảng, ta sẽ nhìn ra phần nào khuôn mặt Thiên Chúa. Khuôn mặt đó một đàng nghiêm trang và cao cả, vượt lên trên mọi khuôn thước của ta. Nhưng đồng thời nét tiêu biểu của khuôn mặt đó lại là thương yêu, chấp nhận và muốn điều tốt lành cho ta.
Và khi được hỏi: ta có thể phác hoạ Đức Giêsu chỉ bằng vài nét tiêu biểu không? Đức Biển Đức trả lời: Ở đây ngôn ngữ loài người là không đủ. Căn bản mà nói, Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, Ngài vừa là Chúa, vừa là người. Ngài chính là đấng không những mang nét tài ba hoặc uy dũng của phàm nhân mà còn được Thiên Chúa xuyên chiếu. Có thể nói, khi nhìn Đức Giêsu bị banh thây trên thập giá, ta thấy được Thiên Chúa như thế nào: là Đấng tự ban tặng cho ta đến mức độ như thế.
Khi được hỏi, Đức Kitô nói: “Hãy xin, sẽđược. Hãy tìm,sẽ thấy. Hãy gõ,sẽ mở.” Mặt khác: Khi con tôi cầu Chúa giúp để làm bài tập ở trường, thì, thú thật, nó đã chẳng luôn được toại nguyện. Đức Biển Đức trả lời: người ta cầu nguyện, chẳng hạn, để được sức khỏe; mẹ cầu cho con; chồng cầu cho vợ; người ta cầu cho dân tộc mình đừng lạc lối - và ta biết, những lời cầu đó không hẳn luôn được nhậm lời. Điều này có thể trở thành một thắc mắc lớn cho những ai đang ở trong cơn thập tử nhất sinh. Họ sẽ tự hỏi: Tại sao Chúa im tiếng? Tại sao Ngài không trả lời lời cầu xin của tôi? Tại sao Ngài ẩn mặt? Tại sao tôi lại gặp điều trái ngược với những gì mình xin?
Khoảng cách giữa lời hứa của Đức Kitô và những gì con người kinh nghiệm được trong cuộc sống đã làm mọi thế hệ, mỗi người và cả chính tôi luôn phải suy nghĩ. Chính mỗi người chúng ta rồi cũng phải tìm ra cho mình câu trả lời, để rồi cuối cùng hiểu được rằng, tại sao Chúa lại nói với ta như thế.
Tác giả hỏi tiếp, tự tìm ra cho mình câu trả lời nào?
Đức Biển Đức trả lời, thánh Augustinô và các giáo vụ khác nói: Chúa ban cho ta cái gì tốt cho ta nhất - cái đó có thể lúc này ta chưa biết được. Nhưng cái gì tốt nhất, thì ta lại thường nghĩ khác hẳn với Chúa. Có lẽ ta phải học chấp nhận những kinh nghiệm và đau khổ gặp trên đường đời, và coi đó như là thánh ý của Ngài. Con đường Chúa nhiều khi là một con đường đáng sợ, nhằm uốn nắn và đúc khuôn lại đời ta, nhờ đó ta thay đổi và trở nên ngay thẳng sự thật.
Như vậy, câu “Hãy xin, sẽ được” chắc chắn không có nghĩa Chúa là cái kho để ta muốn lấy gì thì lấy, hầu lấp đầy chỗ trống của ta và làm cho đời ta thoải mái. Hay Ngài là kẻ đã cất đi đau khổ và những câu hỏi trong ta. Trái lại, nó có nghĩa là Chúa chắc chắn nhậm lời ta và sẽ ban cho ta những gì Ngài cho là phải, là đúng.
Trở lại trường hợp cụ thể lúc nãy: Có lẽ cũng tốt cho con anh, để nó tập hiểu rằng, Chúa từ ái không đơn giản ra tay giúp đỡ khi nó không thuộc bài, mà chính nó phải tự nỗ lực học bài trước đã. Có thể cũng là liều thuốc đắng tốt cho nó khi gặp một thất bại. Mà có lẽ nó cũng rất cần liều thuốc đó để tìm ra con đường nên đi.
Thiên Chúa và Trần Thế đã thành công đáp ứng được thứ ngôn ngữ mới đó. Đọc nó, không thể có “khổ quá, biết rồi, nói mãi!”, phản ứng mà tín hữu vẫn hay thốt ra trước những bài giảng dài lời ngắn ý. Mà trái lại, nó kích thích trí hiểu, đưa ta vào những vấn nạn thiết thực phải giải quyết trên hành trình đức tin và cuộc sống. Chính Đức Hồng y Ratzinger cũng đã ưu tư tha thiết: “Ta phải làm sao dấy lên lại sự tò mò về Kitô giáo, phải làm sao cho người ta muốn tìm biết Kitô giáo thực sự là gì”. Muốn được vậy, Kitô giáo phải có hàng mới để chào thiên hạ, nó phải chứng tỏ có thể đọc được dấu chỉ thời đại, phải nói được ngôn ngữ thời đại.
3. Nhận định
Cuốn sách “Thiên Chúa và Trần Thế” viết về cuộc phỏng vấn giữa nhà báo Peter Seewald và Đức Hồng y Joseph Ratzinger, người sau này trở thành Giáo hoàng Bênêdict XVI. Cuốn sách đưa ra những cuộc trao đổi sâu sắc và tinh tế về đức tin và cuộc sống hiện đại.
Seewald đại diện cho những người trẻ có quan điểm thực tế và nghi ngờ về đức tin, trong khi Ratzinger đại diện cho Giáo hội Công giáo và tư tưởng của một nhà thần học và triết gia. Ratzinger không chỉ trả lời bằng tư cách của một người có chức vụ cao trong Giáo hội, mà còn sử dụng kiến thức và kinh nghiệm của mình để giải đáp các câu hỏi của Seewald và đưa ra các quan điểm về đức tin, tôn giáo, văn hóa và xã hội.
Ở Việt Nam đã dịch cuốn Đức Giêsu thành Nazareth. Một vị đàn anh tại Đức cho hay sẽ chuyển ngữ Nhập môn Kitô giáo, tác phẩm đã được dịch ra mấy chục thứ tiếng. Cầu mong các bản dịch tiếng Việt sớm được góp mặt trong gia sản văn hoá chung của Giáo hội.
(Chủng sinh Gioan B. Nguyễn Văn Bằng)