Mỗi con người hiện hữu trên trần gian này đều phải hình thành cho mình nhân cách sống, được đúc kết từ tài năng hay tư chất cá nhân của bản thân. Đối với những người bước theo Chúa Ki-tô trên con đường dâng hiến, thì ngoài những tư cách cần phải có của một nhân vị bình thường trong xã hội, thì họ còn phải trau dồi cho bản thân những cốt cách cần thiết để họ ngày thêm trở nên giống Chúa Ki-tô, hay nói cách khác là họ phải hoàn thiện nhân cách bản thân mình theo gương mẫu là Chúa Ki-tô. Vì lẽ ấy, trong tập sách nhỏ này, tác giả chủ yếu nhấn mạnh đến nhân cách cần thiết trong đời tu, tức là phác họa ra chân dung của người sống đời thánh hiến. Tuy nhiên, trong xã hội ngày hôm nay để có thể hoàn thiện được nhân cách ấy, người tu sĩ cũng phải đối diện với những thách đố của thời đại, và cần đến ơn Chúa và nỗ lực của bản thân để có thể mang đến điều thiện hảo cho mình.
Tập sách nhỏ này với 13 đề mục nhỏ, tác giả trình bày về những điều làm rào cản cho người tu sĩ hoàn thiện nhân cách của mình, và những phương tiện hữu hiệu nhất giúp họ đạt tới sự hoàn thiện ấy. Đó là những kinh nghiệm được rút ra từ chính đời sống của tác giả, và được tham chiếu dựa trên nền tảng tâm lý học.
Trước nhất, là những thách đố và những rào cản hoàn thiện nhân cách trong đời tu (1,2,3): trong xã hội hiện đại ngày hôm nay con người không còn phải lo lắng về cái ăn cái mặc nữa, nhưng lại chú tâm vào danh-lợi-thú. Ba thứ đó, nó cũng đã len lỏi vào đời sống của những người theo bước đường dâng hiến, nhưng dưới những hình thức mới mà con người rất dễ bị cuốn vào mà cứ nghĩ là bình thường. Cụ thể như cái ‘danh’ là danh tiếng của một người được mọi người biết đến, thì nay nó được con người chú trọng đến mức trở nên ‘chủ nghĩa cá nhân’, tức là tôn sùng bản thân của mình, và cũng từ chủ nghĩa ấy làm cho người ấy tập trung quyền lực để mục đích thống trị người khác. ‘Lợi’ thì hướng người tu sĩ đến chủ nghĩa hưởng thụ để tìm hạnh phúc nơi trần gian, và tiến xa hơn một bước của lợi là sự chiếm hữu, tức là thu vén cho bản thân. ‘Thú’ là chủ trương khoái lạc, nghĩa là tìm sự thoả mãn nơi thân xác, từ đây người tu sĩ sẽ đánh mất bản thân mình lúc nào không hay, và thường hay được biểu lộ qua sự khoe khoang, lối chơi sành điệu.
Để có thể đạt được ba thứ ở trên, người tu sĩ thường phải mang trên mình những lớp mặt lạ để che đậy, bởi thực chất danh-lợi-thú nó không phù hợp với nhà tu. Những mặt lạ mà tác giả liệt kê ra đây bao gồm: cái tôi vĩ đại- là đề cao bản thân tới mức khó mà có thể chấp nhận người khác/ cái tôi nhút nhát-làm cho con người thụ động thiếu tự tin/ cái tôi nệ luật-quá chú trọng nệ luật mà đánh mất đi tình thương/ cái tôi hình thức- quá chú trọng bề ngoài nhằm thu hút người khác, và những biểu hiện nín thở qua cầu/ cái tôi tự ái- khi lòng tự trọng bị tổn thương thì dẫn đến tình trạng này/ cái tôi tiêu cực- tự ti với bản thân. Có những mặt lạ che đậy con người mình như thế nếu để lâu sẽ tạo cho người tu sĩ một cơ chế tự vệ đó là: một cơ chế chối bỏ thực tế, nghĩa là sống không thành thật. Cơ chế tự vệ dồn nén, làm cho người đó né tránh dưới mọi hình thức. Cơ chế tự vệ đóng cửa, một cơ chế không có sự hòa nhập giữa hành động và suy nghĩ. Cơ chế thay thế, là dùng một hành vi khác thế cho hành vi không tốt. Cơ chế tự vệ phản ứng, là cơ chế làm giảm nhẹ hay đảo ngược tình thế khó khăn nhằm đạt mục tiêu cho mình. Hay cơ chế tự vệ hợp lý hóa, là chuyển hóa cơ chế dọa nạt thành chấp nhận.
Thứ đến, tác giả đề cập đến nhân cách tôn giáo là nhắm đến những người có niềm tin cụ thể là Ki-tô hữu, mà tiêu chuẩn để đánh giá nhân cách này là yêu mến Thiên Chúa và vâng theo ý muốn của Người. Trong nhân cách này đề cao lối sống thành thật của người tín hữu, và tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân. Vì thế, để có thể hoàn thiện nhân cách này chúng ta phải trải qua ba giai đoạn là: thần tượng, cầu khẩn và hiệp thương - tức là tin tưởng vào Thiên Chúa, cầu khẩn với Ngài và hiệp thông với tha nhân.(4)
Từ nhân cách mà người tín hữu cần phải có, tác giả phát triển một mức cao hơn đó là nhân cách trong đời tu, đó là nhân cách con người dẫn đạt đến sự hoàn thiện như Đức Ki-tô. Tuy nhiên, trong đời sống để hoàn thiện nhân cách này các tu sĩ thường không thể tránh khỏi những trở ngại nơi sự yếu đuối của con người đó là: thiếu sự trung thực, sự lệ thuộc vào người khác, một não trạng cầu toàn và tính ghen tị. Vì thế, người tu sĩ cần phải được đào tạo theo các giai đoạn khác nhau theo từng cấp độ từ thấp đến cao, sao cho họ có thể bắt kịp mà thay đổi. Cấp độ đó bao gồm giai đoạn đầu đời tu là quãng thời gian tìm hiểu, thỉnh sinh, tập sinh, rồi đến khấn sinh và cuối cùng là giai đoạn tuổi già. Mỗi giai đoạn cần có những giáo án khác nhau sao cho phù hợp với khả năng đón nhận. (5)
Để có thể hoàn thiện nhân cách trong đời tu, ngoài ơn Chúa ban, sự cộng tác của bản thân, thì một thành phần trợ giúp tốt nhất là cộng đoàn. Bởi đây chính là môi trường giúp tu sĩ lớn lên, tăng trưởng và định hình nhân cách. Do đó, nếu một cộng đoàn biến chất, giả danh thì làm nên những phần tử lệch lạc, ngược lại nếu cộng đoàn huynh đệ lành mạnh sẽ giúp các tu sĩ tìm ra căn tính của mình và thể hiện chúng bằng đời sống yêu thương bác ái, theo gương Chúa Ki-tô, Đấng đã hiến mình vì yêu nhân loại. (6)
Khi nhân cách đời tu đã được hoàn thiện thì không phải chỉ dừng ở đó, nhưng cần phải làm cho nhân cách ấy lớn lên từng ngày để đạt tới sự trưởng thành. Có nhiều cách để thực hiện công việc này như thực hành triệt để ba lời khuyên của Phúc Âm, hay tập tành các nhân đức cần thiết. Đó là những tập tành mang chiều kích tu đức, còn có những cách thực hành khác mang tính tâm lý học như: làm chủ cảm xúc, lý trí và ý chí (7) . Bên cạnh đó người tu sĩ cần phải giữ cho giới tính của mình được quân bình, bởi đây là cách giúp chúng ta sống đức tiết độ trong hành trình tâm linh. (9)
Cuối cùng, ngoài những trợ lực mang tính tâm lý thì việc cầu nguyện và sống trong ân sủng của Chúa Thánh Thần là điều cần thiết hơn cả cho việc hoàn thiện nhân cách của tu sĩ. Bởi cầu nguyện như là hơi thở của đời sống tâm linh của người tín hữu, và CTT là người dẫn lối chỉ đường cho người đó bước đi trên con đường theo Chúa Ki-tô (9,10). Tuy nhiên, để có thể có đời sống cầu nguyện kết hợp với Chúa tốt và có thể lắng nghe được sự thúc bách của CTT, người tu sĩ phải sống đúng với linh đạo của mình, qua con đường tự hủy và hiệp thông với những người anh em xung quanh (11)