Mở đầu cuốn sách, tác giả viết: “Chỉ có một Thiên Chúa, chỉ có một dân Thiên Chúa được Ngài tuyển chọn một Đức Tin, một Phép rửa (Ep 4,5). Các chi thể cùng chung một phẩm giá vì đã được tái sinh trong Chúa Ki-tô, cùng một ân huệ được làm con cái, một ơn cứu độ và một niềm hy vọng duy nhất và một đức ái không phân chia”.
Qua đây, tác giả đã một cách nào đó nêu bật tầm quan trọng và bình đẳng của người giáo dân trong Hội Thánh. Mỗi người đều có một ơn gọi trong các bậc sống khác nhau, trong đó ơn gọi trở thành Ki-tô hữu là một ơn gọi nền tảng, là cửa ngõ cho những ơn lành khác. Nhờ bí tích Rửa tội, tất cả đều được tham dự vào ba chức năng: Tư tế, Ngôn sứ và Vương đế cộng đồng.
Từ nền tảng này, tác giả triển khai cuốn sách qua 9 phần khác nhau:
1. Người giáo dân là ai?
- Dưới góc nhìn của CĐ Vat II, tác giả chỉ ra vai trò và phận vụ của người giáo dân trong hiến chế Lumen Gentium và sắc lệnh Apostolicam Actuositatem. Theo đó, người giáo dân được hiểu như là dân Thiên Chúa, họ không phải là giáo sĩ hay tu sĩ. Tuy nhiên, nhờ Bí tích Rửa tội, người giáo dân được mời gọi làm tông đồ, tham dự vào sứ vụ của Giáo hội. Tuy nhiên, người giáo dân có một tính cách trần thế, đây là một tính cách riêng biệt, nghĩa là người giáo dân có bổn phận tìm kiếm nước Thiên Chúa bằng cách làm các công việc trần thế và sắp đặt chúng theo ý Thiên Chúa.
- Dưới cái nhìn giáo luật, tác giả chỉ ra ba đặc trưng cơ bản nhất của người giáo dân: thứ nhất, đó là được dự phần vào ba chức năng của Đức Ki-tô; thứ hai, là được kết hợp với Chúa Ki-tô trong cơ cấu hữu hình của Giáo hội; thứ ba, họ bình đẳng với nhau về phẩm giá và hành động. Từ ba đặc trưng cơ bản này, tác giả lần lượt trình bày những phận vụ của người giáo dân khi tham dự vào sứ mệnh của Giáo hội, đó là khi đảm trách các nhiệm vụ đặc biệt. Qua đó, người giáo dân cũng có những bổn phận và quyền lợi riêng của mình.
- Vai trò của phụ nữ trong Giáo hội. Từ cái nhìn bình đẳng về phẩm giá con người, tác giả trình bày vai trò của phụ nữ trong Giáo hội theo công đồng Vat.II và theo Giáo luật mới năm 1983.
2. Phận vụ người giáo dân trong Giáo hội – Thần học về dân Chúa theo CĐ Vat II
Phần này tác giả giải nghĩa nhiệm vụ là gì, sau đó đưa ra một khái niệm cơ bản về người giáo dân là ai. Tác giả phân biệt hai thành phần cơ bản trong Giáo hội, đó là giáo sĩ và giáo dân. Ở đây, tác giả một lần nữa dựa vào hiến chế Lumen Gentium để chỉ ra rằng, giáo dân tham gia vào đời sống của hội thánh, họ có sứ mạng riêng từ chính Đức Ki-tô chứ không phải là hàng giáo sĩ. Họ bình đẳng giữa các thành phần của dân Chúa, họ vừa thuộc về Dân Chúa, vừa thuộc về xã hội dân sự. Vì thế, giữa giáo dân và linh mục (hàng giáo sĩ nói chung) đều có nhiệm vụ riêng nhưng không tách biệt, mà liên đới với nhau theo chiều ngang. Còn theo chiều dọc, Giáo hội mang vai trò giữ trách nhiệm mang tính tập thể giữa linh mục và giáo dân.
3. Người giáo dân Việt Nam trong sứ vụ loan báo tin mừng.
Phần này tác giả chỉ rõ hai đường hướng chính của người giáo dân Việt Nam cần đi, đó là “Đối thoại với các tôn giáo bạn” và “sống cho người nghèo”. Trong đó, đối thoại không phải bằng những triết lý sâu xa về tôn giáo, nhưng là bằng chính cuộc sống của mình và bằng những hành động cụ thể thấm nhuần Tin mừng. Sống cho người nghèo ấy là để đẩy lùi sự nghèo đói, và là sự dấn thân vì đức ái Ki-tô giáo.
4. Vai trò lòng đạo đức bình dân trong đời sống đức tin của người giáo dân Việt Nam:
Nhìn vào lịch sử để định hướng cho thời đại hôm nay. Rõ ràng không thể phủ nhận những giá trị cao quý mà những việc đạo đức bình dân đem lại cho đời sống Ki-tô hữu, bởi đó là những nét rất riêng và gần gũi với đời sống thường ngày của người giáo dân. Tại Việt Nam có khá nhiều hình thức khác nhau trong việc thực hành đạo đức bình dân. Tuy nhiên, trước những biến chuyển của thời đại, những việc đạo đức bình dân cũng phải uấn mình theo sự phát triển này. Có những việc đạo đức bình dân rất tốt lành những đã bị mai một, có những việc đạo đức lại bị biến chất theo xã hội, nhưng cũng có những việc xem ra không còn phù hợp với thời nay. Vì thế, canh tân lòng đạo đức bình dân phù hợp với văn hóa dân tộc là một việc làm rất cần thiết và khó khăn.
5. Vai trò của người giáo dân hậu CĐ Vat.II tại Châu Á và tại Việt Nam
Phần này tác giả lược lại cuộc họp của FABC IV, trong đó trình bày về nhiệm vụ người giáo dân trước những thách đố hôm nay tại Châu Á và nhận diện sứ vụ của người giáo dân. Qua đây, người giáo dân được mời gọi phục vụ trong các lãnh vực khác nhau, và một trong những điều cơ bản nhất đó là trong chính gia đình. Bên cạnh đó, người giáo dân còn được coi như là người giải phóng trong môi trường xã hội, là người tiên phong trong sứ mạng truyền giáo cũng như trong việc canh tân về cơ cấu. Còn đối với Việt Nam, tác giả lượt lại đường hướng mục vụ của Giáo hội Việt Nam thông qua thư chung năm 1980 và thành quả của đại hội dân Chúa năm 2010.
6. Tân phúc âm hóa trong chính đời sống Giáo hội.
Phần này tác giả chỉ ra công cuộc tân phúc âm hóa trong ba chiều kích:
- Martyria: Giáo hội cần minh định lại đức tin của mình, qua đó đối thoại có phê phán với thế giới, để qua đó tìm ra đâu là điều cốt yếu và cống hiến cho thế giới.
- Lyturgia: Giáo hội được mời gọi bước vào một cuộc hoán cải lương tâm, hoán cải đời sống và hoàn cảnh cụ thể của họ.
- Diakonia: Giáo hội được mời gọi mang lấy trong mình tinh thần phục vụ như Đức Ki-tô.
7. Loan báo Tin mừng cách mới mẻ dưới chiều kích: Giáo hội như là dân Thiên Chúa
Trong phần này, tác giả khởi đi từ quan điểm của Vat.II, đó là tiếp tục đưa Giáo hội về nguồn gốc Thánh Kinh và Thánh Truyền; nhưng đồng thời cũng không quên tính chất hiện thực của Giáo hội. Theo đó, Giáo hội là một cộng đoàn đức tin và đức mến, nên mọi người đều là dân Thiên Chúa nên có sứ mạng đem ơn cứu độ cho con người, và là một dấu chỉ của niềm hy vọng.
8. Đức tin và việc truyền thông đức tin
Phần này tác giả trình bày suy tư cá nhân của mình, về đức tin đã lãnh nhận được – đó là một hồng ân lớn lao mà Thiên Chúa tặng ban cho con người. Tuy nhiên, dựa trên những con số thống kê, tác giả nhận định rằng việc truyền giáo ở Việt Nam vẫn gặp rất nhiều khó khăn và chưa thực sự hiệu quả. Qua đó, tác giả mời gọi mọi người không chỉ chờ vào những chỉ dẫn của các Ủy ban, không phó mặc cho hàng giáo sĩ hay tu sĩ, mà mỗi người giáo dân cần biết hành động, và khởi đi ngay từ trong chính gia đình của mình.
9. Vai trò truyền thông đức tin của Hội Đồng Giáo xứ.
Phần này tác giả chỉ ra vai trò của người giáo dân, không chỉ là chứng nhân, nhưng còn là dụng cụ sống động cho sứ mệnh của Giáo hội. Theo đó, họ được mời gọi cộng tác vào trong các công việc của Hội Đồng Giáo xứ, như là trung gian giúp các gia đình chu toàn sứ mạng giáo dục và chuyển giao đức tin cho các thế hệ. Để có được như vậy, họ cần trở thành những người mẫu mực, thấm nhuần Lời Chúa cùng với một thái độ văn minh và tình thương, ngang qua các hoạt động của giáo xứ bằng những hình thức cầu nguyện mang tính phổ thông, đó là các việc đạo đức bình dân.