Chúng ta thường học môn Giáo luật trên lớp theo thứ tự các chủ đề và các điều khoản. Tuy nhiên, có phải Giáo luật chỉ là những điều lẽ khô cứng, chỉ ra những quy tắc những điều phải làm hay không được làm. Và chúng có ý nghĩa gì trong đời sống Giáo Hội không? Cuốn sách này giúp mở ra cho chúng ta một cái nhìn rộng mở và sâu xa hơn của các điều khoản trong Giáo luật.
Cuốn sách được chia làm 3 chương:
Chương 1: Lịch sử hình thành Giáo luật trong tương quan với Thần học.
Trước tiên, tác giả giới thiệu lại lịch sử hình thành nên bộ Giáo luật từ những bộ sưu tập đầu tiên và dần phát triển trong các cộng đoàn. Tuy nhiên, có những thời điểm Giáo luật và thần học lẫn lộn nhau; tương quan hỗ tương nhau; hay lại được phân chia vị trí nghiên cứu hai lãnh vực này như hai khoa học riêng lẻ, bao gồm khác nhau về đối tượng nghiên cứu, về mục đích và cách tiếp cận vấn đề.
Chương 2. Quy tắc hóa các bộ Giáo luật trong thế kỷ XX.
Trong chương này, tác giả giúp chúng ta nhìn qua quá trình biên soạn bộ Giáo luật trong thế kỷ XX.
+ Ngày 25.7.1917: Lễ Hiện xuống, Đức Bênêdicto XV ban hành luật đầu tiên cho toàn thể GH Công Giáo theo lễ điển Latinh – hoàn toàn bằng tiếng Latinh và không có chú giải.
+ Ngày 25.1.1983: Đức GH Gioan Phaolô II đã công bố bộ luật đã được sửa đổi và được phép xuất bản những bản dịch theo ngôn ngữ khác. (Đến 1989 mới cho xuất bản bộ Giáo luật có diễn giải, nghĩa là những ghi chú những nguồn để so sánh).
+ Ngày 18.10.1990: Bộ Giáo luật cho các Giáo Hội Đông Phương do ĐGH Gioan Phaolô II ban hành.
Ngoài ra, trong chương này tác giả còn giúp chúng ta hệ thống một cách tổng quát hai bộ Giáo luật đang được áp dụng, cùng với việc chỉ ra những nguồn mà bản văn lập pháp bổ sung cho bộ Giáo luật. Chương này còn giúp chúng ta hệ thống những điều khoản mà luật địa phương được phép áp dụng và soạn thảo cho mình những quy định riêng.
Chương 3: Nền tảng và khía cạnh Thần Học về Giáo luật.
Chương này tác giả đưa chúng ta trở lại nền tảng thần học về Giáo luật từ sau Công đồng Vaticanô II. Từ đó, tác giả chỉ ra cho chúng ta những trường phải khác nhau khi định nghĩa Thần học về Giáo luật.
- Trường phái Munich cho rằng: Giáo hội như là một thực tại sống động của mọi thời đại, trong đó đời sống Kitô hữu được đặt vào và được diễn đạt cách sống động. Tuy nhiên một số nhà nghiên cứu Giáo luật sau này nhận định trường phái này không xác định được sự khác biệt về phương pháp giữa Thần học và Giáo luật.
- Trường phái Navarre xác định Giáo luật cần thiết thực hiện đầy đủ sự công chính trong xã hội và trong Giáo hội. Có hai quan điểm nổi lên trong trường phái này: Một đàng nhận định Giáo luật là “nguyên tắc trật tự cộng đồng”, một đàng khác lại nhận định luật có “chức năng xây dựng dân Chúa”.
- Trường phái nghiêng về mục vụ, các điều luật được đọc dưới nhãn quan mục vụ, nghiêng về thực hành và cử hành mầu nhiệm của Chúa Kitô cũng như rao giảng lời của Ngài.
- Sau cùng, giáo huấn của Công đồng Vaticanô II và các ĐGH đã xác định cách rõ ràng cho chúng ta một hướng đi cụ thể. Đức Phaolô VI: Tự bản chất, Giáo luật là mục vụ. Đối với Đức GH Gioan Phaolô II, ngài lại cho rằng: lòng nhiệt tâm với phần rỗi các linh hồn vốn là mục tiêu tối hậu của các định chế, luật lệ, pháp lý – hôm nay cũng như hôm qua.
Như vậy, dựa trên những suy tư của các trường phái cũng như đường hướng của Giáo hội, tác giả chỉ ra bản chất và truyền thống của Giáo luật đó là Giáo luật ăn sâu vào trong mầu nhiệm và đời sống cụ thể của Giáo hội. Thần học về Giáo luật cũng khẳng định sự cần thiết của mình để đảm nhận tất cả những điều tự mặc khải của Thiên Chúa tỏ bày về mầu nhiệm Giáo hội và những gì được chứng thực trong Kinh Thánh.
Tóm lại, Giáo luật được hình thành và xây dựng trên nền tảng Kinh Thánh, và trong thời kì đầu, Giáo luật và Thần học được hòa hợp, Phụng vụ và Luân lý được rút ra cách tiệm tiến những tiếp cận khác nhau về học thuyết Kitô giáo, cả hai đều hướng về đới sống hạnh phúc vĩnh cửu. Sau dần, Thần học và Giáo luật được tách dần ra hai mảng chuyên biệt, tuy nhiên Giáo luật luôn phải dựa vào Thần học và rút ra các lý tưởng từ Giáo hội.