Tác phẩm được chia làm ba chương chính cùng với một phần phụ trương. Việc nghiên cứu mà tác giả đưa ra đó là phân tích hạn từ ḥeseḏ trong 3 chương, qua đó khi đối chiếu ḥeseḏ của Đức Chúa với ḥeseḏ của Ít-ra-en, Hô-sê chỉ cho thấy bản chất hành vi tôn giáo của dân Ít-ra-en mang tính giả hình như thế nào.
Chương 1: Tác giả dành để tìm hiểu cách tổng quát khái niệm ḥeseḏ, khởi đi từ việc truy tầm từ gốc, tác giả đối chiếu từ nguyên theo ngôn ngữ Sê-mít và theo ngôn ngữ Hy-lạp. Tiếp theo tác giả ghi nhận hạn từ được sử dụng trong Cựu Ước: ḥeseḏ như là cách hành xử của con người và ḥeseḏ như là cách hành động của Thiên Chúa. Thứ ba, tác giả so sánh và đưa là những cặp những thành ngữ liên quan với ḥeseḏ vẫn thường gặp, chẳng hạn như: ḥeseḏ với ͗ĕmeṯ / ĕmûnāh; ḥeseḏ với mišpāṭ; ḥeseḏ với raḥǎmîm; ḥeseḏ với bǝrîṯ.
Chương 2: là chương trọng tâm của phần nghiên cứu. Trước tiên, tác giả trình bày tổng quan về sách Hô-sê, bao gồm: Bối cảnh lịch sử; con người ngôn sứ; việc hình thành sách; cấu trúc sách và thần học sách Hô-sê. Tiếp theo, tác giả lần lượt phân tích năm đoạn sách Hô-sê trong đó xuất hiện hạn từ ḥeseḏ: Hs 2,21-22; Hs 4,1-3; Hs 6,4-6; Hs 10,11-13a; Hs 12,7. Mỗi đoạn sẽ được lần lượt triển khai theo sơ đồ: trích dẫn bản văn, bối cảnh và biên tập, hình thức và thể loại, phân tích chú giải, và sứ điệp ngôn sứ được rút ra dựa trên ý nghĩa cụ thể của hạn từ ḥeseḏ.
Chương 3: tác giả suy tư thần học và chỉ dẫn cách đọc ngôn sứ Hô-sê trong ánh sáng của hạn từ ḥeseḏ. Thật vậy, chính trong bối cảnh của giao ước được kí kết giữa Đức Chúa với Ít-ra-en, một tương quan qua lại giữa hai phía được hình thành xoay quanh khái niệm ḥeseḏ. Từ đó, tác giả làm nổi bật lên ḥeseḏ của Đức Chúa, trong đó Đức Chúa được giới thiệu như là Đấng khởi xướng lịch sử Ít-ra-en, như người chồng trung tín, và rồi như người cha nhân hậu. Đàng khác, tính nửa vời của ḥeseḏ nơi Ít-ra-en cũng sẽ được minh chứng một cách rõ ràng và thuyết phục. Cụ thể qua việc chỉ ra sự thiếu ḥeseḏ và thiếu nhận biết Thiên Chúa “דַּ֖עַת יְהוָֽה” (daʿat yhwh).
Phần phụ trương mang tính đọc thêm, tác giả muốn trình bày một lối giải thích Kinh Thánh độc đáo của cộng đoàn Qum-ran về sách Hô-sê, pēšer. Đây là một trong những phương pháp giải thích Kinh Thánh Cựu Ước thời Đền thờ thứ hai (520 tCN – 70 sCN) và tiếp tục được kế thừa trong thời Tân Ước. Phương pháp pēšer của cộng đoàn Qum-ran xem xét từng câu của bản văn Kinh Thánh, và tìm ra một ý nghĩa thực tế cho đời sống cộng đoàn trong những hoàn cảnh quá khứ hoặc tương lai. Lý do của cách thực hành này là vì có một vài suy tư cho rằng, các ngôn sứ xa xưa viết tác phẩm Kinh Thánh không phải cho thời đại của ông, nhưng là cho các thế hệ tương lai, và tương lai chính là lịch sử của cộng đoàn Qum-ran. Việc trình bày này nhắm ba mục đích. 1/Về khía cạnh giải thích Kinh Thánh, pēšer là điểm khởi hành cho lịch sử giải thích, như được thấy trong Ermeneutic Bible (Thông diễn học Kinh Thánh – Giải thích học). 2/ Đối với Ki-tô hữu, việc hiện tại hóa sứ điệp bản văn Kinh Thánh ngay trong mọi hoàn cảnh thăng trầm là điều đáng mong ước. Như một ví dụ điển hình, cộng đoàn qum-ran đã làm như vậy, qua phương pháp pēšer. 3/ Các bản văn ngôn sứ Hô-sê trong vài thủ bản Qum-ran, tuy ít ỏi, nhưng cũng là một trong những bằng chứng cần thiết phục vụ cho việc phê bình và chú giải bản văn Kinh Thánh hiện nay. Do đó, việc trình bày được coi như một chuẩn bị cho những nghiên cứu kế tiếp về bản văn Hô-sê.